Banner tet am lich

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

TỪ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH TỚI DIỄN TIẾN DÂN CHỦ LS Lưu Nguyễn Đạt

Khái niệm “Diễn Biến Hoà
Bình”, chuyển ngữ mộc mạc
từ “Peaceful Evolution”, nhắc
tới một chủ thuyết có tính
cách sách lược, phát khởi
trong thời Chiến tranh Lạnh,
bởi John Foster Dulles,[1] cựu
Tổng trưởng Ngoại Giao Hoa
Kỳ, trong thập niên 1950.
Sách lược này chủ trương
một [a] “tiến trình chuyển
đổi” từ thể chế độc tài toàn
trị sang thể chế dân chủ [b]
bằng con đường hoà bình [c]
tại các quốc gia cộng sản.[2]
I. Phản Ứng và Lo Ngại của
Khối Cộng Sản
Tại Trung Quốc, Mao Trạch
Đông đã chống lại “diễn biến
hòa bình” từ năm 1959.[3]
Một mặt Mao Trạch Đông
chê Nga Xô chuyển mình
theo chủ nghĩa xét lại qua
chiêu bài “sống chung hoà
bình”[4] của Nikita
Khrushchev, mặt khác khởi
xướng và dùng chiêu bài “Đại
cách mạng văn hóa” hay “Văn
cách” trong suốt 10 năm từ
năm 1966-1976, để loại bỏ
những phần tử “tư sản tự
do” — trong đó có đối thủ
chính trị là Lưu Thiếu Kỳ —
và đánh phủ đầu những
đảng viên bất đồng ý kiến
khác như Đặng Tiểu Bình,
Bành Đức Hoài…
Như vậy, cuộc Cách mạng
Văn hóa Vô sản nhằm chặn
đứng mối nguy cơ của cuộc
”Diến Biến Hoà Bình” tại
Trung Quốc lúc đó, bằng
cách đè bẹp những kẻ hữu
khuynh muốn phá bỏ cấu
trúc thượng tầng của chủ
nghĩa xã hội…[5]
Kể từ Mao Trạch Đông, nhà
cầm quyền CS Trung Hoa
luôn luôn coi “Diễn Biến Hoà
Bình” là mối đe doạ lớn nhất
cho sự duy trì của chế độ
cộng sản trong nước và tại
khu vực.
Thật vậy, Đặng Tiểu Bình dù
có ý định cổ võ phong trào
xét lại Cách mạng Văn hóa,
nhưng khi phong trào này
kêu gọi “cải tổ dân chủ”, thì
lập tức Đặng Tiểu Bình ra
lệnh Quân Đội Nhân Dân
Cách Mạng dẹp đám sinh
viên, trí thức tụ tập biểu tình
tại Bắc Kinh và sau đó gây ra
vụ thảm sát tại quảng trường
Thiên An Môn trong năm
1989. Những cuộc đụng độ
này đã khiến 800 dân thường
thiệt mạng, 10.000 người bị
thương.
Và gần đây, ngay đầu năm
2012, Hồ Cẩm Đào với tư
cách Tổng Bí thư Ủy ban
Trung ương Đảng kiêm Chủ
tịch nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa đã kêu gọi [a]
chống lại “sự xâm nhập tư
tưởng và văn hóa” của các
“thế lực thù địch, [b] đồng
thời thắt chặt kiểm soát tư
tưởng để đàn áp các tiếng
nói bất đồng.[6]
Tại Việt Nam, khái niệm
“Diễn Biến Hoà Bình” cũng
được coi như là một trong
những mối đe dọa lớn nhất
tới sự tồn tại của Đảng Cộng
sản. Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam viết: “Diễn biến
hòa bình là một trong những
chiến lược có ý nghĩa và
phạm vi toàn cầu của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động được hình thành
từ những năm cuối thập kỷ
40 đầu thập kỷ 50 và hoàn
chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ
XX nhằm chống phá các nước
xã hội chủ nghĩa, phong trào
độc lập dân tộc và phong
trào cách mạng tiến bộ trên
thế giới.”[7]
Vịn cớ vào hiện tượng đó,
CSVN coi các tiếng nói đối
nghịch, các hoạt động cá
nhân hoặc phong trào vận
động dân chủ, nhân quyền
trong và ngoài nước là các
hành vi “tuyên truyền chống
nhà nước Việt Nam”, hoặc vi
phạm pháp luật Việt Nam.[8]
II. Những Đợt Diễn Biến Hoà
Bình Trong Khu Vực Cộng
Sản Quốc Tế
Sau hơn nửa thế kỷ thử
thách, “Diễn biến hòa bình”
đã vượt ra khỏi vị trí khái
niệm/dự đoán để quy tụ
thành một trào lực bất khả
cưỡng, làm lung lay những
“màn thép” và xập đổ những
“bức tường” ô nhục vây
quanh không gian chuyên
chế, độc tài toàn trị cộng sản
Châu Âu.
Thật vậy, sau nhiều đợt thi
đua trang bị vũ khí thời Hậu-
Đệ-Nhị-Thế Chiến, chủ
trương đầu tư quân sự và
trường kỳ kháng chiến theo
cách mạng vô sản không còn
là giải pháp thực tiễn để
phát triển quốc gia thuộc
khối cộng sản Châu Âu.
Ngay giữa “Chiến tranh
Lạnh”, vào năm 1956 tại Đại
Hội thứ 20 Xô Viết Nga,
Khrushchev đã khai mào
đường lối “Sống Chung Hoà
Bình”[9] giữa hai siêu cường
quốc Hoa Kỳ và Nga Xô, cũng
như giữa NATO (Khối quân
sự Bắc Đại Tây Dương)[10] và
Warsaw Pact (Khối liên minh
quân sự các nước XHCN) [11]
với chủ đích:
giảm thiểu áp lực thù địch,
tránh bỏ chiến tranh hạt
nhân [12] giữa hai Khối Tự
Do và XHCN;
tham dự những cuộc nghị
hội chủ trương hoà bình;
mặc nhiên chấm dứt tham
vọng trực tiếp xâm chiến thế
giới tự do bằng bạo lực
“Hồng Quân”;
và hầu như xét lại nguyên
tắc căn bản của cuộc cách
mạng vô sản theo XHCN.
Chủ trương “Détente” –Thư
giãn/Bớt Căng Thẳng– này đã
đưa đến những cuộc Thảo
luận Hạn chế Vũ Khí Chiến
lược [13] phần nào “ăn khớp”
với chủ thuyết “Diễn Biến
Hoà Bình”, dù bị Trung Cộng
coi là phản bội Cách Mạng
Vô Sản.
Cuối cùng, phần nào do âm
vang thôi thúc của những
cuộc biểu tình đòi dân chủ
tự do tại Trung Quốc, dù
biến cố này thất bại bằng
cuộc thảm sát ngày mùng 4
tháng 6 năm 1989 tại quảng
trường Thiên An Môn, Hiện
tượng “Diễn Biến Hoà Bình”
vẫn thêm khẩn trương, dồn
dập qua những cuộc chính
biến liên tiếp giải thể chế độ
cộng sản tại Châu Âu, đưa
tới hiện tượng xô đổ
“domino effect” như sau:
Tại Ba Lan, Phong trào Công
đoàn Đoàn kết [Solidarity
Polish: Solidarność] đã toàn
thắng tại Hạ Viện và Thượng
viện và sau đó thành lập một
chính phủ Phi Cộng sản mới
vào tháng Chín năm 1989.[14]
Tại Hungary, ngày 20 tháng
10, Quốc hội đã thông qua
luật cho phép bầu cử quốc
hội đa đảng và một cuộc bầu
cử tổng thống trực tiếp.
Cộng hòa Nhân dân cũng đã
chuyển thành Cộng hòa
Hungary, theo thể chế tam
quyền phân lập.[15]
Tại Đông Đức, sau khi bức
tường Berlin bị phá xập vào
ngày 9 tháng 11 năm 1989,
chế độ độc tài của Đảng
Thống nhất Xã hội chủ nghĩa
[Socialist Unity Party (SED)]
đã kết thúc, đưa tới sự thống
nhất của Đông và Tây Đức
vào ngày 3 tháng 10 năm
1990.[16]
Tại Tiệp Khắc, sau cuộc
“Cách mạng Nhung” bất bạo
động trong tháng 11 năm
1989, Đảng Cộng sản Tiệp
Khắc công bố từ bỏ nhà
nước độc đảng và Václav
Havel được chọn làm Tổng
thống Tiệp Khắc vào ngày 29
Tháng 12 năm 1989.[17]
Tại Bulgaria, Đảng Cộng sản
đã tự giải thể trong tháng 2
năm 1990 nhường chỗ cho
cuộc bầu cử tự do đầu tiên
vào tháng 6 năm 1990.[18]
Tại Romania, đầu năm 1989,
Ceauşescu được bầu lại lãnh
đạo Đảng Cộng sản để đương
đầu với cuộc nổi dậy trong
nước. Nhưng ngày 22 Tháng
12, quân đội Rumania đột
nhiên chuyển hướng sát
nhập với đám biểu tình để
lùng bắt Ceauşescu và vợ
ông, Elena. Vào ngày lễ
Giáng Sinh năm 1989,
Ceauşescus bị xét xử và lãnh
án tử hình. [19]
Tại Nam Tư, sau cái chết của
Tito vào năm 1980, Nam Tư
đã phải đương đầu với nhiều
căng thẳng sắc tộc. Vào
tháng Giêng năm 1990, Đại
hội bất thường của Liên
đoàn của Cộng sản Nam Tư
đã được triệu tập để trên
thực tế tự giải thể. Cấp lãnh
đạo các sắc tộc Slovenia,
Croatia, Macedonia, Bosnia,
Herzegovina, Serbia,
Montenegro, Kosovo tiếp
diễn kế hoạch ly khai khỏi
liên bang Nam Tư để giành
độc lập, tuần tự từ nằm 1991
tới 2008.[20]
Tại Liên Bang Xô viết
Để thoát khỏi tình thế ứ
đọng suy thoái, Tổng Bí Thư
Liên Xô Mikhail S. Gorbachev
ngay từ năm 1985 đã đề
xướng hai chường trình “đổi
mới”:[21]

“Perestroika” [“restructuring
") hay chính sách “cải tổ”
nhằm tạo thêm tự do về mặt
chính trị, kinh tế và tôn giáo.
-- "glasnost" ("openness"/
”transparency”) hay chính
sách công khai hoá và minh
bạch hoá các hoạt động của
những cơ quan nhà nước
nhằm [a] tạo tự do thông tin
và ngôn luận cho đại chúng
[b] thêm khả năng giúp giảm
nạn tham nhũng và lạm dùng
quyền lực của Trung ương
Đảng.
Những biện pháp trên, hoặc
quá muộn, hoặc phiến diện,
hạn hẹp, nên dần dần gây
thêm [a] bất mãn nơi đại
chúng, [b] tranh chấp nội bộ
và [c] sự tan rã của Liên
Bang Xô Viết.
Kể cả những bức “màn tre”
bao vây Khu vực Cộng sản
Châu Á[22] cũng dần dà bị
rách toạc, chuyển biến từ
cảnh lạc hậu bế-môn-toả-
cảng sang thế thị trường hé
mở mánh mung.
Thật vậy, sau những cuộc
chiến tranh “bán cái/đánh hộ
”[23]và “viễn khiển/be bờ”[24]
tại Cao Ly và Việt Nam, chủ
trương đầu tư quân sự khu
vực hay trường kỳ kháng
chiến theo cách mạng vô sản
quốc tế cũng không còn là
giải pháp thực tiễn để phát
triển quốc gia thuộc Khu vực
Cộng sản Châu Á nữa. Do đo,
CSVN và CSTQ lập tức chuyển
hướng chính sách cai trị.
Trước tiên, ngay sau khi trở
lại chính trường, năm 1978
Đặng Tiểu Bình tung ra
chương trình “Bốn hiện đại
hóa” và để cho dân dán “Đại
tự báo” chống đối sai lầm
của cuộc Cách Mạng Văn
Hoá.
Năm 1979, Đặng Tiểu Bình
thăm Mỹ nhằm bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước,
tạo dựng lòng tin với Hoa Kỳ
để hưởng viện trợ về công
nghệ và khoa học kỹ thuật.
Ngay sau đó, Đặng Tiểu Bình
đã cải cách đất nước theo
hướng “chủ nghĩa xã hội
mang màu sắc Trung Quốc”,
dưới hình thức “kinh tế thị
trường theo hướng xã hội
chủ nghĩa”, với những trạng
thái dị hình như sau:
1. nền tảng kinh tế hỗn hợp;
2. chủ lực quốc doanh
[doanh nghiệp do “Nhà
Nước/Đảng” sở hữu hay sát
nhập vào quyền lợi Đảng và
Lãnh tụ];
3. gia nhập kinh tế thị trưởng
toàn cầu để thêm cơ hội vơ
vét, dụng võ cho giai cấp tài
phiệt quốc doanh;
4. hậu quả: chế độ độc tài
chuyên chính [chính trị độc
đảng] đã diễn biến/chuyển
thành đảng phiệt tư bản đỏ
[25] khi tập đoàn tài phiệt
CSTQ độc chiếm thị trường.
Trước đà “diễn biến” phương
Bắc, Việt Nam lập tức mượn
gió bẻ măng, cũng tự diễn
biến theo diện “Đổi Mới” [26]
sao y bá đạo “Kinh tế Thị
Trường theo hướng Xã Hội
chủ Nghĩa” với những nhập
nhằng chủ mưu chiếm đoạt
như sau:
1. Tư hữu của dân thành
quốc hữu;
2. Quốc hữu thành tài sản
của Đảng;
3. Tài sản của Đảng được hoá
giá thành tư sản của cấp
Lãnh Đạo/Đại gia/Tài phiệt
Đỏ [27]; Với hiệu ứng tất
nhiên phân tách xã hội thành
hai khối: thiểu số cầm quyền
cực kỳ giầu có, tham nhũng,
mánh mung đối mặt với đại
chúng bị trị, cực kỳ nghèo
khổ, thất thế, bất lực, bó tay,
sống còn trong vòng luẩn
quẩn tha hoá, vô định.
III. Diễn “Biến” Hoà Bình hay
Diễn “Tiến” Hoà Bình
Vậy, nếu chỉ muốn chuyển
ngữ và quan niệm “Peaceful
Evolution” ở mức độ “Diễn
Biến Hoà Bình” thì đó là một
ngộ nhận vĩ đại, và cũng là
một trạng thái chẳng đặng
đừng trong một khung cảnh
xã hội đổ vỡ, bất toàn, tranh
sáng tranh tối.
Thực chất giới lãnh đạo cộng
sản chỉ đủ sở trường quan
niệm “Peaceful Evolution” ở
mức độ tiêu cực hay thụ
động:
1. Như một mối đe doạ cho
ý thức hệ của họ, nên cuống
cuồng chống đối, vùng vằng
phản kháng như đỉa phải vôi;
2. Nhưng nếu thấy suy nhược
trong thế cổ thủ, cô lập, thì
lại sẵn sàng tìm cách khúm
núm, ăn có với địch cốt để
sống còn. Như Đặng Tiểu
Bình đã làm, như cấp lãnh
đạo Hànội đang làm: cúi đầu
nhận tiếp viện, súng ống, kỹ
thuật, tài lực Tây phương
như liều thuốc “diễn biến”
cải tử hoàn sinh…cho “đảng,
cho mình”. Thế thôi.
3. Do đó trí tuệ mánh mung
lẫn khôn ngoan xảo quyệt
của giới lãnh đạo CS không
vượt ra khỏi tầm hiểu biết
tham lam, vị kỷ, vị đảng của
họ, nên chẳng bao lâu “diễn
biến đổi đời-đổi mới” của họ
lại luẩn quẩn ứ đọng trong
ao tù thịnh vượng giả tạo,
tham nhũng; cướp bóc, nuốt
chửng lẫn nhau.
4. Hiện tượng diễn-biến-
phát-tài-tự-nổ đang xẩy ra ở
mọi môi trương kinh doanh
tập trung, mọi mặt đầu cơ
đảng phiệt mafia gia truyền
tại Trung Quốc, như tại Việt
Nam. Cấp lãnh đạo tài phiệt
đỏ Chấu Á bề ngoài thì lừa
dân, bề trong nội đình thì
lừa đảo lẫn nhau.
Có hiện tượng sai lầm như
vậy vì quan niệm “Diễn Biến
Hoà Bình” vỏn vẹn thể hiện ở
cấp lãnh đạo quốc gia, nên
chỉ có tính cách chuyển biến
tiêu cực và thụ động
[negative & passive
transformation]. Cấp lãnh
đạo cộng sản quốc tế đã cho
thấy rõ chính sách cai trị và
quản trị của họ chỉ là những
chắp nối thủ đoạn phá hủy,
rồi tự phản, tự phá.
Ngược lại, lời kêu gọi về
“Peaceful Evolution” của John
Foster Dulles cần được xác
định một cách chính xác, tích
cực và chủ động, vì:
1. “Evolution” không phải là
“diễn biến”, “thay đổi”, “biến
đổi” [Transformation] vô
định, luẩn quẩn, ngược xuôi,
xuôi ngược. Như với trò chơi
block-lego gọi là
“transformer”, trẻ em có thể
biến đổi các cục lego thành
người, rồi thành xe, thành
nhà, hay ngược lại. Từ vuông
biến đổi thành tròn, từ tròn
thay đổi thành dài, bẹt,
ngang, thẳng, muôn hình vạn
trạng v.v Tất cả những trạng
thái hoán chuyển/diễn biến
đó chỉ có thể được gọi là
“thay đổi/transformation”
hay “biến dạng/
déformation”, chứ không là
“Evolution”.
2. Vì muốn có “Evolution” thì
sự đổi thay phải đưa tới
“tiến hoá”, “tiến triển”, phát
triển” [progression/growth]
từ thô sơ, hà tì thành tinh vi,
toàn hảo; từ thấp kém thành
tiến bộ, thăng tiến v.v.
3. Do đó “Peaceful Evolution”
phải được dịch là “Diễn Tiến
Hoà Bình”, chỉ đạt được bằng
một sự lựa chọn tích cực,
phù hợp, nhằm cải tiến, tăng
trưởng [Selection /
Adaptation/Improvement]
một môi trường, một thể
chế.
Như theo “Thuyết Tiến
Hoá” [Evolutionism], loài khỉ
dần dà diễn tiến thành loài
người đứng thẳng, rồi tiến
triển thành con người biết
suy nghĩ– có tư tưởng, tâm
linh, có văn hoá, có sáng
tạo, mỗi lúc mỗi toàn hảo,
tinh vi, tiến bộ. Do đó khi
con người bị các chế độ bất
nhân, dã man đầy đoạ thành
súc vật, ngủ ở chuồng heo,
ăn cám — đổi đời/diễn biến/
transformed” thành nô lệ vô
sản, nô lệ cuồng tín, nô lệ tư
tưởng, nô lệ lao động, nô lệ
tình dục, thì “diễn
biến” [transformation] đó chỉ
có nghĩa là suy thoái, là thụt
hậu, là tận cùng tha hoá, tàn
phá nhân bản khác hẳn với
“peaceful evolution”, với
“tiến hoá hoà bình” mà John
Foster Dulles mong quảng
bá; mà con người chân chính
vẫn muốn thực hiện.
IV. Vậy làm thế nào có “Diễn
Tiến Hoà Bình/Peaceful
Evolution” trong một quốc
gia còn theo chủ nghĩa cộng
sản như Việt Nam?
Như đã định nghĩa sơ khởi,
sách lược “Peaceful
Evolution” chủ trương một
[a] “tiến trình chuyển đổi” từ
thể chế độc tài toàn trị sang
thể chế dân chủ [b] bằng con
đường hoà bình [c] tại các
quốc gia cộng sản.
Muốn thấy Việt Nam thực sự
“diễn tiến hoà bình” thì phải
xác định mức độ “Diễn tiến
dân chủ” hay “Dân Chủ Hoá”
một cách tích cực, chủ động.
Khi mục tiêu là Dân Chủ, thì
việc đầu tiên phải hoàn trà
cho toàn dân vị trí nguồn gốc
của mọi trào lực chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá,
sáng tạo. Dân tộc đại chúng
bất phân kỳ thị phải là cứu
cánh của mọi phúc lợi, an
ninh và luật pháp quốc gia,
trên căn bản công bằng về
quyền lợi và trách nhiệm.
Do đó, những điều kiện dân
chủ hoá cần thiết dưới đây
phải hội đủ trên bốn bình
diện chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá:
1. Bình Diện Chính Trị và
Công Quyền
Tiên quyết, chế độ CSVN và
mọi hình thức độc tài đảng
phiệt, tập đoàn chuyên
chính, quân phiệt và tài
phiệt tại Việt Nam phải tự
giác, nhận giải thể một cách
sòng phẳng, toàn diện, để
tiến hoá hội nhập một thể
chế pháp trị, đa đảng, tuần
hoàn đại diện dân trên căn
bản tam quyền phân lập.
Theo hình thức chấp chính
này, toàn dân sử dụng quyền
lực chính trị hay dân quyền
để bầu cử và kiểm soát
chính phủ. Do đó, chính thể
dân chủ có trọng trách thi
hành việc nước theo ý dân,
phục vụ qua sự ủy thác của
dân: nhà cầm quyền hành
pháp, lập pháp và tư pháp
được dân chúng chọn để ủy
thác quyền chấp chính, để
gián tiếp đôn đốc, bảo vệ
quyền lực và quyền lợi của
chính người dân.
Vậy quyền chính trị, công
quyền, sứ mạng đảng phái
chỉ có tính cách đại nhiệm
[28] chứ không có tính cách
chấp hữu [29]. Đó là đại diện
dân và đại nhiệm quyền lợi
của dân. Vì căn bản dân là
thân chủ, là sở hữu chủ của
quyền lợi giao phó.
Mọi hình thức vượt hay
chống lại quyền “ủy nhiệm/
đại nhiệm” trên sẽ phải coi
là lạm quyền và tiếm quyền
[30], làm mất tính cách chính
thống/chính đáng
[legitimacy] của nhà cầm
quyền, của đảng phái chấp
chính. Những thành phần
nhiệm chức vi phạm quyền
hành, vị phạm luật pháp sẽ
bị tố cáo, thanh trừng, cách
chức [31].
Vậy, mọi thế lực công quyền,
chính trị, đảng phái phải
thượng tôn luật pháp hiến
định; sinh hoạt một cách
công minh, chân chính,
tương xứng; nhằm phục vụ
phúc lợi và tương lai dân
tộc; bảo trọng sự vẹn toàn
và khả năng phát triển của
lãnh thổ, thiên nhiên và tân
tạo.
Quyền tư hữu phải được xác
định một cách công minh,
nghiêm túc, sòng phẳng để
giải quyết mọi bất công, oan
ức của người dân trước đây
và sau này.
Quyền tư hữu phải được
phối hợp chặt chẽ với dân
quyền và nhân quyền, một
cách liên tục, bất khả tước
đoạt, dưới mọi hình thức,
mọi điều kiện khả thi.
2. Bình Diện Kinh Tế Và Kinh
Doanh
Việt Nam cần xác định và
bảo trọng một chính sách
kinh tế mở, phục vụ người
dân trong nước, qua sự hợp
tác đa phương về mặt kinh
doanh và phát triển quốc gia
bằng cách:
[a] bác bỏ chế độ quản trị
quốc doanh để tránh mọi
hình thức thao túng độc
quyền kinh doanh, độc
chiếm thị trường [32] vốn là
những nguồn gốc của bế tắc
kinh tế và tham nhũng dây
truyền.
[b] tăng trưởng hệ thống
kinh doanh tư, trên căn bản
tự do thương nghiệp, đầu tư
theo sáng kiến kinh doanh;
cung ứng nhu cầu tiêu thụ
và ý muốn của người dân.
(c) tăng trưởng hệ thống kinh
doanh nhân bản:
tiêu chuẩn hoá đạo đức
nghề nghiệp [professional
ethics];
tiêu chuẩn hoá đạo đức kinh
doanh [Corporate social
responsibility];
tái dụng và chuyên môn hoá
nhân công;
đa dạng hoá quyền lợi của
giới lao động
bảo vệ môi trường;
(d) hệ thống hoá kinh doanh
kết sinh:
theo tiêu chuẩn phát triển
quốc gia và địa phương;
theo tiêu chuẩn hợp tác khu
vực;
theo tiêu chuẩn thị trường
toàn cầu;
(e) kết hợp thực lực chính trị,
kinh tế và kinh doanh một
cách ôn hoà, cân nhắc quyền
lợi tư nhân và bổn phận
nghề nghiệp, sáng kiến và
trách nhiệm kinh doanh,
nhằm phục vụ công ích và
tiến bộ nhân loại.
3. Bình Diện Xã Hội và Tổ
Chức Xã Hội Dân Sự
Con người tự do có quyền và
trách nhiệm tụ họp; đóng
góp khả năng, trí tuệ và tâm
linh khi phục vụ xã hội, bằng
cách tự nguyện đoàn ngũ
hoá thành tổ chức xã hội
dân sự [XHDS], dưới hình
thức tổ chức bất vụ lợi, độc
lập, hoặc tổ chức phi chính
phủ, để hoạt động trong các
lĩnh vực xã hội, kinh tế, từ
thiện, giáo dục, tôn giáo,
nghề nghiệp, điều nghiên,
văn học, nghệ thuật, các
phong trào dân vận bảo
trọng nhân quyền v.v.
Khi tự nguyện thành lập
đúng theo khuôn khổ và thủ
tục pháp định, tổ chức XHDS
có dịp công khai, minh bạch
hoá mục tiêu và sứ mạng
theo đuổi, với kết quả đóng
góp thế lực và ảnh hưởng
dân chủ trong lĩnh vực sinh
hoạt cộng đồng.
Sinh hoạt hợp pháp của tổ
chức XHDS cũng cho phép
lượng giá hệ thống công
quyền hiện hữu là dân chủ
tự do nếu tôn trọng hoạt
động chính thống của XHDS,
còn không sẽ phải coi là
chuyên chế, phản dân chủ,
khi cấm đoán, kìm kẹp, kiểm
soát các tổ chức tập thể này.
XHDS phải được minh thị tôn
trọng như một nhu cầu
chính đáng của dân, do dân,
vì dân. Mọi hình thức tổ
chức XHDS khác đều có tính
cách trá hình, lươn lẹo, vừa
phản động ngược chiều, vừa
vô hiệu, phí phạm nhân lực,
tài lực.
Nhiều thống kê đã cho thấy,
mức độ tăng trưởng về dân
chủ chân chính đưa tới tình
trạng gia tăng lợi tức quốc
gia và tức nhiên gia giảm
cảnh nghèo khó trong xã hội
đó. Tuyệt nhiên, xoá đói
giảm nghèo không thể thực
hiện bằng chính sách a tòng
tài phiệt ngoại bang bóc lột
nhân công, xuất khẩu lao
động, bán dâu cho ngoại
quốc.
Ngoài các yếu tố tư bản và
kỹ thuật tân trang, phương
thức đầu tư nhận sự một
cách thiết thực, lâu bền,
cùng thể thức tôn trọng pháp
luật, bảo trọng quyền tư hữu
và tự do mậu dịch vẫn là
những thành tố của một môi
trường hữu hiệu trong việc
xoá đói giảm nghèo, với sự
phối hợp viễn kiến, lòng bác
ái nhân từ của thế lực đa
phương phục vụ quyền lợi và
nhu cầu nhân dân.
Hơn nữa, trong một xã hội
vững bền, đầy đủ tiện nghi,
có văn hoá nhân bản bình
đẳng, bình quyền, bình sản,
tôn trọng pháp luật, bảo
trọng nhân phẩm thì nạn
tham nhũng sẽ giảm thiểu
tối đa.
4. Bình Diện Văn Hoá Sáng
Tạo
Dân chủ tự nó không có ý
nghĩa gì cả. Nó không phải là
một tặng dữ có sẵn, bất
biến, cho không, biếu không,
như quả sung văn minh rụng
xuống miệng người tiêu thụ.
Dân chủ chỉ khởi phát khi
chính quyền và người dân ở
mọi tầng lớp trong nước [a]
thực sự quan tâm tới dân
chủ, [b] có nhu cầu và khả
năng hội nhập một nền văn
hoá dân chủ,[33] với chủ
trương:
1. bảo trọng và phát huy một
nền văn hoá đa dạng trên
căn bản tương nhượng, đối
trọng, bình đẳng, không cho
phép bất cứ truyền thống, tư
tưởng, tín ngưỡng nào trở
thành độc tôn, độc chiếm
ảnh hưởng, hay có ưu thế
lấn át những thành tố khác.
2. bảo trọng và phát huy một
nếp sống hội nhập sinh hoạt
dân chủ, tự do, cởi mở,
không quá khích, mà quyền
lợi và trách nhiệm phải đối
xứng, cân bằng.
3. bảo trọng và phát huy một
đạo sống tự lập, tự giác, có
khả năng hội nhập công ích
và quyền lợi chung một cách
công bằng, tự nguyện, không
bị áp lực, kìm kẹp.
4. bảo trọng và phát huy một
tư duy đối tác, một quan
niệm lãnh đạo tự kiểm, tự
trọng, nhận lãnh trách
nhiệm, không ỷ lại, đổ thừa.
5. bảo trọng và phát huy một
nền giáo dục toàn diện, đào
tạo công dân toàn cấp [a]
đầy đủ kiến thức sáng tạo,
[b] tôn trọng luật pháp, [c]
có ý thức căn bản của một xã
hội dân sự trưởng thành, tự
duy, tự phát [c] có tự do và
khả năng tranh luận, đối
kháng, [d] có khả năng và
trách nhiệm quyết định trong
sáng, hoạt động minh bạch.
6. trau dồi đạo sống kết sinh
những truyền thống cũ và
mới có giá trị diễn tiến nhân
bản, [a] về mặt kiến thức
sáng tạo và kỹ thuật cập
nhật, [b] về phúc lợi vật chất,
tâm linh khả ứng nhu cầu
địa phương, khu vực và toàn
thế giới, trên đà hội nhập và
tiến hoá nhân loại.
7. xác định dân chủ [a] vừa là
một hứa hẹn phát huy tự do
và phẩm giá nhân bản khi
thực thi công bằng cá nhân,
xã hội, chính trị, kinh tế, văn
hoá, [b] vừa là một thách đố
tích cực khi lịch trình tiến
hoá đưa tới thành quả của
nền dân chủ lại do chính
người dân – đại chúng thuộc
mọi giới, mọi khả năng, mọi
xu hướng – đạm nhậm, thực
hiện, không ai khác, không
sao hơn.
Để Tạm Kết
Trước thời điểm kết thúc chế
độ cộng sản tại Châu Âu vào
năm 1989, trong lúc Đông
Đức còn ra uy cử hành kỷ
niệm 40 năm thống trị,
Gorbachev khi tới tham dự
đã cảnh cáo lãnh tụ Erich
Honecker sớm cải cách giải
thể: “Ai chậm trễ sẽ mất
mạng” [Wer zu spät kommt,
den bestraft das Leben/He
who is too late is punished
by life).[34] Chắc chắn ngày
hôm nay, các lãnh tụ CSVN
cũng đã từng nghe những lời
nhắn nhủ, cảnh cáo tương
tự, trong và ngoài nước.
Phải chăng gần đây những
lời tuyên bố lập đảng Dân
Chủ Xã Hội của hai ông Lê
Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận
là những phát biểu cá nhân
phản tỉnh; những phản kháng
leo teo, lạc lõng, rồi nín bật;
hay là ý nguyện chung của
“cánh ly khai” đảng CSVN
mỗi lúc mỗi ồ ạt để thực sự
trở thành lực lượng đối lập;
hay là lời mở đường cho giới
lãnh đạo chuẩn bị giải thể
chế độ CSVN để tự lột xác
sống còn dưới trướng dân
tộc tự quyết.
Cựu Tổng Thống Nga Boris
Yeltsin đã từng tuyên bố: ”…
Người Cộng sản bất trị,
không có thuốc chữa, mà
phải trừ tiệt” (Communists
are incurable, they must be
eradicated). Sớm muộn gì
chế độ CSVN độc tài toàn trị
sẽ phải giải thể hay tự hủy
trước phong trào diễn tiến
dân chủ.
Riêng đối với đại chúng —
mọi thế hệ, mọi giới, mọi
khả năng, mọi xu hướng —
khi đã ý thức nhu cầu cấp
bách của đại cuộc vận
chuyển theo hoài bão và
tương lai dân tộc, sự chậm
trễ nhập cuộc diễn tiến dân
chủ chân chính, có tự do và
nhân quyền, là một lỗi lầm
lịch sử cần phải chấm dứt
kịp thời.
[1] John Foster Dulles
(February 25, 1888 – May 24,
1959) served as U.S.
Secretary of State under
President Dwight D.
Eisenhower from 1953 to
1959. He was a significant
figure in the early Cold War
era, advocating an aggressive
stance against communism
throughout the world.
[2] Asia Times Online: Hu
warns successors over
“peaceful evolution”’
[3] 1959: Preventing Peaceful
Evolution | China Heritage
Quarterly
[4] The Soviet theory of
peaceful coexistence
asserted that the United
States and USSR, and their
respective political
ideologies, could co-exist
together rather than fighting
one another. See endnote #
9.
[5] Michael Schoenhals, ed.,
China’s Cultural Revolution,
1966-1969: Not a Dinner
Party (Armonk, N.Y.: M.E.
Sharpe, 1996. An East Gate
Reader). xix, 400p. ISBN
1563247364.; MacFarquhar
Roderick and Schoenhals,
Michael. Mao’s Last
Revolution. Harvard
University Press, 2006. ISBN
0674023323
[6] Bài phát biểu của Hồ Cẩm
Đào đã được xuất bản bởi tờ
Tìm kiếm Sự Thật, một tạp
chí hàng đầu của ĐCSTQ do
Trường Đảng Trung ương
điều hành, trong ấn bản đầu
tiên của mình cho năm 2012.
[7] T.Huyền, “Phòng, chống
“Diễn biến hòa bình” ở Việt
Nam – Những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, 9
tháng 3 năm 2009.
[8] BBC Vietnamese – Việt
Nam – Diễn biến hòa bình,
May 27, 2009.
[9] Khrushchev solidified the
concept in Soviet foreign
policy in 1956 at the 20th
Congress of the Communist
Party of the Soviet Union.
The policy arose as a
temptation to reduce
hostility between the two
superpowers, particularly in
light of the possibility of
nuclear war. The Soviet
theory of peaceful
coexistence asserted that the
United States and USSR, and
their respective political
ideologies, could co-exist
together rather than fighting
one another, and Khrushchev
tried to demonstrate his
commitment to peaceful
coexistence by attending
international peace
conferences, such as the
Geneva Summit, and by
traveling internationally,
such as his trip to America’s
Camp David in 1959. The
World Peace Council founded
in 1949 and largely funded
by the Soviet Union
attempted to organize a
peace movement in favor of
the concept internationally.
[10] NATO ký kết 4 April 1949.
Các quốc gia thành viên sáng
lập & gia nhập trong chiến
tranh Lạnh gồm Anh, Bỉ, Bồ
Đào Nha, Canada, Đan Mạch,
Hà Lan, Hoa Kỳ, Iceland,
Luxembourg, Na Uy, Pháp, Ý,
Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, CHLB
Đức, Tây Ban Nha.
[11] Warsaw Pact [Khối liên
minh quân sự các nước
XHCN] ký kết tại Warsaw năm
1955, gồm Liên Xô, Albania
(rút ra năm 1968), Ba Lan,
Bulgaria, Đông Đức, Hungary,
Romania, Tiệp Khắc
[12] hostilities & nuclear war
[13] Strategic Arms Limitation
Talks (SALT –I) and the
Helsinki Accords
[14] Lech Walesa. The
Struggle and the Triumph:
An Autobiography. Arcade
(1991). Tagliabue, John (13
September 1989). “Poles
Approve Solidarity-Led
Cabinet”. The New York
Times.
[15] József Bayer, “The
Process of Political System
Change in Hungary”,
inSchriftenreihe des Europa
Institutes Budapest, 2003.
“Hungary Purges Stalinism
From Its Constitution”. The
New York Times. 19 October
1989.
[16] Mary Fulbrook. History
of Germany, 1918-2000: the
divided nation; Bleiker ,
Roland. “Nonviolent Struggle
and the Revolution in East
Germany” The Albert Einstein
Institution. 1993.
[17] Nelson, Lars-Erik. New
Czechoslovakian Leaders Are
As Stunned As Their People.
New York Daily News,
1990-02-21; Wolchik, Sharon
L. “Czechoslovakia’s ‘Velvet
Revolution.’” 1990. Current
History. 89:413-416,435-437.
Retrieved March 11, 2009;
Glenn, John K. “Competing
Challengers and Contested
Outcomes to State
Breakdown: The Velvet
Revolution in Czechoslovakia”
. September 1999. Social
Forces. 78:187-211. Retrieved
March 11, 2009
[18] Crampton, R.J., A
Concise History of Bulgaria,
2005, pp.205, Cambridge
University Press
[19] Sebetsyen, Victor (2009).
Revolution 1989: The Fall of
the Soviet Empire. New York
City
[20] Glenny, Misha (1996).
The fall of Yugoslavia: the
third Balkan war. Penguin
Books
[21] Sebetsyen, Victor (2009).
Revolution 1989: The Fall of
the Soviet Empire. New York
City
[22] Trung Hoa, Việt Nam,
Bắc Triều Tiên, Lào, Cao Mên
[23] proxy war
[24] remote war of
containment
[25] state capitalism
[26] Renovation
[27] Oligarchic privatization;
déceptive acquisition &
détournement de fonds
publics;
[28] attribution de pouvoir
représentatif
[29] attribution de pouvoir
possessif ou de mainmise
[30] abuse of power/
accaparement de pouvoir
[31] mise en accusation/
removal, impeachment
[32] Marché de monopole
[33] cultural democracy
[34] Wer zu spät kommt, den
bestraft das Leben/He who is
too late is punished by life)
.Sebetsyen, Victor (2009).
Revolution 1989: The Fall of
the Soviet Empire. New York
City
Nguồn:
http://www.vietthuc.org
/2013/09/07/t%E1%BB%AB-di
%E1%BB%85n-bi%E1%BA%
BFn-hoa-binh-t%E1%BB%9Bi-
di%E1%BB%85n-ti%E1%BA%
BFn-dan-ch%E1%BB%A7/

posted from Bloggeroid