CHƯƠNG 10
by tập 2
Cover
CHƯƠNG 10
HOÀNG ĐẾ NỘI KINH – Tập 2
MỤC LỤC
10- NGŨ TẠNG SINH THÀNH THIÊN
11- NGŨ TẠNG BIỆT LUẬN
12- DỊ PHÁP, PHƯƠNG NGHI LUẬN
13- DI TINH BIẾN KHÍ LUẬN
14- THANG DỊCH, GIAO, LỂ LUẬN
15- NGỌC BẢN LUẬN YẾU THIÊN
16- CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬN
17- MẠCH YẾU TINH VI LUẬN
18- BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN
- 0o0 -
CHƯƠNG 10
NGŨ TẠNG SINH THÀNH THIÊN
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
TÂM hợp với Mạch, vinh ra ở Sắc, nó chủ ở THẬN (1) .
PHẾ hợp với Bì (da), vinh ra ở Lông, nó chủ ở TÂM (2) .
CAN hợp với Cân (gân), vinh ra ở Trảo (móng tay chân), nó chủ ở PHẾ (3) .
TỲ hợp với Nhục (thịt), vinh ra ở Môi, nó chủ ở CAN (4) .
THẬN hợp với Cốt (xương), vinh ra ở Tóc, nó chủ ở TỲ (5) .
(1)-. TÂM chủ về huyết mạch, nên mới nói là “hợp với Mạch”. – Kinh nói : “Mạch phát hiện ở khí khẩu, sắc hiện ra ở Minh-Đường ; cái tinh hoa hiện lên mặt (tinh hoa của Tâm)…” nên đây nói : “vinh ra ở sắc”. vinh là tươi đẹp cũng như tinh hoa. Năm Tạng hợp với năm Hành đều có sự tương sinh, tương chế, nên mới có sự sinh hóa. Tâm chủ Hỏa, mà bị chế bởi Thận-thủy. Vì vậy nên Thận-tạng là chủ về sự sinh hóa của TÂM nên mới nói “chủ ở THẬN”
(2)-. PHẾ chủ về KHÍ, khí chủ về BIỂU nên hợp với BÌ. THƯƠNG-HÀN LUẬN nói : “mạch ở Thốn-khẩu Hoãn mà Trì ; hoãn thời dương khí trưởng, tiếng theo về tiếng “thương” ; mà mao phát (tóc dài)…..” vì mao (lông) liền với BÌ, khí trưởng thời mao vinh.
(3)-. Tủy sinh ra CAN, can sinh cân, cho nên mới nói “hợp với CÂN”. Trảo là chất thừa của cân, nên mới nói : “vinh ra ở TRẢO”.
(4)-. TỲ chủ về trung ương Thổ, là một cơ quan Thương-lẫm, chủ về việc vận hóa cái tinh hoa của Thủy cốc để sinh ra cơ nhục, cho nên mới nói : “ hợp với NHỤC”. Tỳ khai khiếu ra miệng, nên mới nói : “vinh ra ở MÔI”
(5)-. THẬN chứa tinh mà chủ về TỦY, cho nên mới nói : “ hợp với XƯƠNG”. Tóc là chất thừa của tinh huyết cho nên nó mới “vinh ở TÓC”.
Án : bài NGŨ HÀNH LUẬN nói rằng : “Bắc phương sinh ra khí hàn, hàn sinh Thủy, thủy sinh ra HÀM (mặn) Hàn sinh ra THẬN, THẬN sinh ra CỐT TỦY ; Tủy sinh ra Can, Can sinh ra Cân, cân sinh ra TÂM, tâm sinh ra huyết, huyết sinh ra Tỳ, tỳ sinh ra NHỤC, nhục sinh ra PHẾ, phế sinh ra bì mao. Bì mao sinh ra THẬN..” đó là do Thiên nhất sinh THỦY, và là sự tương sinh của 5 Tạng.
--. LỤC VI CHỈ LUẬN (nói) lại chép rằng :
Đế hỏi :
--. Địa lý ứng với 6 tiết, khí vị như thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. Ở dưới Tướng-hỏa thủy khí tiếp theo ; ở dưới Thủy-vị, Thổ-khí tiếp theo ; ở dưới Thổ-vị Phong-khí tiếp theo ; ở dưới Phong-vị, Kim-khí tiếp theo ; ở dưới Kim-vị, Hỏa-khí tiếp theo ; ở dưới Quân-hỏa, Âm-tinh tiếp theo.
“Cang thời hại, Thừa sẽ chế” chế thời sẽ thành ra sự sinh hóa. Cho nên mới nói rằng: Tâm hợp với Mạch, Phế hợp với Bì..” . đó là nói về sự tương sinh của 5 Tạng.
Như nói : “nó chủ về Thận, nó chủ về Tâm v.v…” đó là nói về sự tương THÀNH của 5 Tạng.
CHƯƠNG 10
HOÀNG ĐẾ NỘI KINH – Tập 2
MỤC LỤC
10- NGŨ TẠNG SINH THÀNH THIÊN
11- NGŨ TẠNG BIỆT LUẬN
12- DỊ PHÁP, PHƯƠNG NGHI LUẬN
13- DI TINH BIẾN KHÍ LUẬN
14- THANG DỊCH, GIAO, LỂ LUẬN
15- NGỌC BẢN LUẬN YẾU THIÊN
16- CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬN
17- MẠCH YẾU TINH VI LUẬN
18- BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN
- 0o0 -
CHƯƠNG 10
NGŨ TẠNG SINH THÀNH THIÊN
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
TÂM hợp với Mạch, vinh ra ở Sắc, nó chủ ở THẬN (1) .
PHẾ hợp với Bì (da), vinh ra ở Lông, nó chủ ở TÂM (2) .
CAN hợp với Cân (gân), vinh ra ở Trảo (móng tay chân), nó chủ ở PHẾ (3) .
TỲ hợp với Nhục (thịt), vinh ra ở Môi, nó chủ ở CAN (4) .
THẬN hợp với Cốt (xương), vinh ra ở Tóc, nó chủ ở TỲ (5) .
(1)-. TÂM chủ về huyết mạch, nên mới nói là “hợp với Mạch”. – Kinh nói : “Mạch phát hiện ở khí khẩu, sắc hiện ra ở Minh-Đường ; cái tinh hoa hiện lên mặt (tinh hoa của Tâm)…” nên đây nói : “vinh ra ở sắc”. vinh là tươi đẹp cũng như tinh hoa. Năm Tạng hợp với năm Hành đều có sự tương sinh, tương chế, nên mới có sự sinh hóa. Tâm chủ Hỏa, mà bị chế bởi Thận-thủy. Vì vậy nên Thận-tạng là chủ về sự sinh hóa của TÂM nên mới nói “chủ ở THẬN”
(2)-. PHẾ chủ về KHÍ, khí chủ về BIỂU nên hợp với BÌ. THƯƠNG-HÀN LUẬN nói : “mạch ở Thốn-khẩu Hoãn mà Trì ; hoãn thời dương khí trưởng, tiếng theo về tiếng “thương” ; mà mao phát (tóc dài)…..” vì mao (lông) liền với BÌ, khí trưởng thời mao vinh.
(3)-. Tủy sinh ra CAN, can sinh cân, cho nên mới nói “hợp với CÂN”. Trảo là chất thừa của cân, nên mới nói : “vinh ra ở TRẢO”.
(4)-. TỲ chủ về trung ương Thổ, là một cơ quan Thương-lẫm, chủ về việc vận hóa cái tinh hoa của Thủy cốc để sinh ra cơ nhục, cho nên mới nói : “ hợp với NHỤC”. Tỳ khai khiếu ra miệng, nên mới nói : “vinh ra ở MÔI”
(5)-. THẬN chứa tinh mà chủ về TỦY, cho nên mới nói : “ hợp với XƯƠNG”. Tóc là chất thừa của tinh huyết cho nên nó mới “vinh ở TÓC”.
Án : bài NGŨ HÀNH LUẬN nói rằng : “Bắc phương sinh ra khí hàn, hàn sinh Thủy, thủy sinh ra HÀM (mặn) Hàn sinh ra THẬN, THẬN sinh ra CỐT TỦY ; Tủy sinh ra Can, Can sinh ra Cân, cân sinh ra TÂM, tâm sinh ra huyết, huyết sinh ra Tỳ, tỳ sinh ra NHỤC, nhục sinh ra PHẾ, phế sinh ra bì mao. Bì mao sinh ra THẬN..” đó là do Thiên nhất sinh THỦY, và là sự tương sinh của 5 Tạng.
--. LỤC VI CHỈ LUẬN (nói) lại chép rằng :
Đế hỏi :
--. Địa lý ứng với 6 tiết, khí vị như thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. Ở dưới Tướng-hỏa thủy khí tiếp theo ; ở dưới Thủy-vị, Thổ-khí tiếp theo ; ở dưới Thổ-vị Phong-khí tiếp theo ; ở dưới Phong-vị, Kim-khí tiếp theo ; ở dưới Kim-vị, Hỏa-khí tiếp theo ; ở dưới Quân-hỏa, Âm-tinh tiếp theo.
“Cang thời hại, Thừa sẽ chế” chế thời sẽ thành ra sự sinh hóa. Cho nên mới nói rằng: Tâm hợp với Mạch, Phế hợp với Bì..” . đó là nói về sự tương sinh của 5 Tạng.
Như nói : “nó chủ về Thận, nó chủ về Tâm v.v…” đó là nói về sự tương THÀNH của 5 Tạng.