Banner tet am lich

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

Nguyễn Văn An

Nguyên Chủ tịch Quốc hội
khuyến nghị đổi mới hệ
thống chính trị
LTS: Đảng Cộng sản Việt
Nam có hạnh phúc to lớn
mà không dễ chính đảng
nào có được: đó là sự tin
yêu, đùm bọc, hy sinh, che
chở của nhân dân trong
những năm tháng đấu tranh
giành độc lập.
Trong hòa bình, dựng xây
đất nước, có những lúc Đảng
phạm những sai lầm, nhưng
nhân dân vẫn đi theo Đảng,
vẫn chung sức cùng Đảng
sửa sai, mà sự nghiệp đổi
mới thành công trong gần
25 năm qua là một minh
chứng sinh động.
Hôm nay, trước thềm Đại
hội 11, trước những vận hội
mới mở ra với đất nước,
người dân lại mang hết tâm
huyết hiến kế để Đảng tiếp
tục lãnh đạo đất nước làm
nên những trang sử mới cho
dân tộc Việt Nam. Trong
tinh thần đó, Tuần Việt Nam
giới thiệu bài trả lời phỏng
vấn của nguyên Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Văn An,
với mong muốn Đại hội 11
sẽ thực sự là những ngày
hội lớn của toàn dân, sẽ
thổi lên hào khí cho đất
nước. Mời bạn đọc cùng
tranh luận, hiến kế với
Đảng.
Các dự thảo văn kiện của
Đại hội Đảng XI vừa được
công bố rộng rãi để lấy ý
kiến nhân dân. Như Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã
nhấn mạnh: "Đây là một
khâu rất quan trọng trong
xây dựng Đảng về chính trị -
vấn đề cốt tử của Đảng và là
nhiệm vụ hàng đầu trong
toàn bộ công tác xây dựng
Đảng". Bằng cách chân
thành lắng nghe và tiếp thu
thực chất những ý kiến đóng
góp của dân, Đảng sẽ cộng
hưởng được trí tuệ của toàn
dân tộc để lãnh đạo đất
nước vượt lên trong một
thời đại rất nhiều cơ hội
nhưng cũng vô vàn thách
thức.
Trò chuyện với Tuần Việt
Nam, ông Nguyễn Văn An
(nguyên Ủy viên Bộ chính
trị, Chủ tịch Quốc hội,
Trưởng ban Tổ chức Trung
ương) đã chia sẻ nhiều ý
kiến thẳng thắn xung quanh
việc chuẩn bị cho Đại hội XI.
Nhận mình là người sinh ra
trong lòng chế độ, gắn bó
máu thịt với chế độ, ông
Nguyễn Văn An cho rằng cá
nhân ông muốn nhân cơ hội
này để nói những suy nghĩ
của mình. Ông mong muốn
thông qua cuộc trò chuyện
này, chia sẻ những suy nghĩ,
góc nhìn riêng của một đảng
viên và một công dân bình
thường với nguyện vọng để
Đảng có chủ trương đổi mới
toàn diện và triệt để hơn,
đáp ứng lòng mong đợi của
nhân dân hơn; để những giá
trị cao đẹp của Nền Dân chủ
Cộng hòa, của Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc ngày càng
được thể hiện trong cuộc
sống sinh động như di
nguyện của Bác Hồ.
Suốt cuộc trò chuyện, ông
An nhiều lần nhấn mạnh,
góc nhìn của ông đôi chỗ có
thể "khó nghe" hoặc cần
phải tranh luận thêm,
nhưng với trách nhiệm Đảng
viên, trách nhiệm công dân,
ông cứ mạnh dạn đưa ra,
như một sự xới xáo vấn đề
trên tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật,
tôn trọng những ý kiến khác
biệt mà Đảng luôn kêu gọi.
Ông luôn nhắc đi nhắc lại
rằng, nhận thức là một quá
trình. Nhận thức của ông
cũng thay đổi theo đường
lối đổi mới của Đảng và sự
phát triển của thế giới. Ông
cũng luôn khẳng định phần
trách nhiệm của mình về
những nhận thức và việc
làm còn nhiều hạn chế và
yếu kém của ông khi còn
đương nhiệm.
Thưa ông Nguyễn Văn An,
các văn kiện chuẩn bị
trình Đại hội XI vừa được
công bố rộng rãi để lấy ý
kiến nhân dân, vừa rồi ông
có tham gia ý kiến gì
không?
Ông Nguyễn Văn An: Tôi đã
có rất nhiều cơ hội tham gia
ý kiến trực tiếp với một số
hội nghị do Bộ Chính trị tổ
chức, góp ý trực tiếp với
nhiều đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ở Trung
ương và một số địa phương.
Hôm nay với tư cách là một
đảng viên, một công dân
bình thường, tôi chỉ phát
biểu vài vấn đề chung, vì
văn kiện thì có nhiều vấn đề
lớn rất quan trọng.
Trong rất nhiều vấn đề quan
trọng đó, lần này tôi chỉ tập
trung nhấn mạnh hai vấn đề
có ý nghĩa lý luận - thực
tiễn cốt yếu, đó là: Vấn đề
sở hữu và thành phần kinh
tế; vấn đề xây dựng Đảng,
đặc biệt là dân chủ trong
Đảng, trong xã hội, đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ
cách nhìn thế nào, cách
nhận thức thế nào,... từ đó
sẽ đi tới những ý kiến khác
nhau, đó cũng là điều dễ
hiểu. Nhất là lãnh đạo cấp
cao của Đảng và Đại hội XI
sẽ lắng nghe và chắt lọc
như thế nào? Đó mới là
khâu quyết định.
Dư luận trong Đảng và trong
xã hội hiện đang có ít nhất
hai khuynh hướng:
- Về cơ bản vẫn giữ cái
khung các dự thảo văn kiện
như hiện nay. Cụ thể, Cương
lĩnh 2010 vẫn giữ khung cơ
bản của Cương lĩnh 91 như
dự thảo, có bổ sung sửa đổi
đôi chút, hoặc thêm bớt,
hoặc đảo từ,... chủ yếu bây
giờ là đi vào nhân sự thôi.
- Hoặc, Cương lĩnh 2010
phải vượt qua cái khung cơ
bản của Cương lĩnh 91 như
dự thảo, để xây dựng một
Cương lĩnh 2010 mới đáp
ứng yêu cầu của Cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn
mới, giai đoạn đổi mới toàn
diện, triệt để, cả kinh tế và
chính trị, tức là hoàn thiện
ở mức độ cao hơn, mức độ
SỬA LỖI HỆ THỐNG.
Tôi mong muốn Bộ Chính trị
và Ban Chấp hành Trung
ương, mong muốn Đại hội
XI chọn khuynh hướng thứ
hai, khuynh hướng SỬA LỖI
HỆ THỐNG, khuynh hướng
đổi mới tư duy toàn diện và
triệt để, cả kinh tế và
chính trị thì chúng ta mới
khắc phục được lỗi hệ
thống, vì chúng ta mắc lỗi
hệ thống mà chúng ta chỉ
chỉnh sửa theo khuynh
hướng thứ nhất thì chúng ta
không ra khỏi lỗi hệ thống
được.
Đại hội XI chưa làm được
như vậy thì đến đại hội XII,
vì " ngày mai bắt đầu từ
ngày hôm nay ", và Đại hội
XII bắt đầu từ Đại hội XI.
Nhiều nhà nghiên cứu lý
luận khoa học đã đề cập
đến lỗi hệ thống, song
nhiều người thường ngại
ngần, né tránh, mỗi khi
bàn tới cụm từ LỖI HỆ
THỐNG có lẽ vì ngại động
chạm vào cái thiêng liêng
nhất, vào điểm cơ bản trên
đường đi của cách mạng
Việt Nam. Ông, có thể mô
tả lỗi hệ thống một cách
dễ hiểu nhất như thế nào?
Lỗi hệ thống là lỗi từ gốc
đến ngọn, từ lý thuyết đến
mô hình và đã được cuộc
sống kiểm nghiệm là chưa
phù hợp với thời đại ngày
nay. Lâu nay chúng ta
thường mới nói tới cái lỗi
của mô hình thôi.
Có lẽ, lỗi hệ thống rõ ràng
nhất, cụ thể nhất, toàn diện
và triệt để nhất chủ yếu là
từ khi chúng ta chuyển từ
Cách mạng dân tộc dân chủ
sang Cách mạng xã hội chủ
nghĩa theo mô hình của
Cộng hòa Xô Viết - một mô
hình rất xa lạ với những mô
hình và lý thuyết phổ quát.
Mà mô hình của Cộng hòa
Xô Viết thì lại bắt nguồn từ
những lý thuyết của chủ
nghĩa Marx-Lenin.
Tôi chỉ là người làm thực
tiễn nên chỉ có thể đề cập
đến vấn đề này từ góc độ
thực tiễn. Đề nghị Hội đồng
lý luận Trung ương, các
Trung tâm nghiên cứu Khoa
học giúp Đảng và Nhà nước
ta làm rõ vấn đề này.
Tôi chỉ đề cập vài vấn đề về
kinh tế và chính trị mà tôi
cho là đã rõ, nhiều người đã
cảm nhận được từ thành
quả của công cuộc đổi mới
của nước ta do Đảng ta lãnh
đạo, từ sự sụp đổ của các
đảng cộng sản ở Đông Âu và
Liên Xô (cũ), từ sự đánh giá
về thời đại ngày ngay,...
Ông Nguyễn Văn An. Ảnh:
Phạm Hải.
Từ chỗ đánh giá Cách mạng
dân tộc dân chủ đã hoàn
thành, chúng ta phải chuyển
ngay sang Cách mạng xã hội
chủ nghĩa theo luận thuyết
cách mạng không ngừng.
Luận thuyết cách mạng
không ngừng là đúng, còn
cái sai là ở chỗ chúng ta
đánh giá cách mạng dân tộc
dân chủ đã hoàn thành tới
mức phải chuyển ngay sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi đó cũng có ý kiến cho
rằng Cách mạng dân tộc dân
chủ của ta chưa hoàn thành
cơ bản, chúng ta mới làm
được phần Cách mạng dân
tộc, đánh đuổi thực dân, đế
quốc, giành lại độc lập cho
dân tộc; còn phần Cách
mạng dân chủ thì mới làm
được một phần, mới đánh
đổ vua chúa phong kiến, còn
rất nhiều nội dung của Cách
mạng dân chủ chúng ta
chưa làm được, đến tận
ngày nay vẫn còn nhiều vấn
đề về dân chủ chúng ta
cũng chưa làm được.
Lâu nay chúng ta quan
niệm bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa, tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội.
Không hiểu mệnh đề này
có còn phù hợp với tình
hình hiện nay và tới đây
không?
Chúng ta chuyển ngay sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa
là theo lý thuyết có tính tiền
đề rằng, các nước kém phát
triển có thể bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, nếu được sự
giúp đỡ vô tư trên tinh thần
anh em của những nước xã
hội chủ nghĩa hùng cường.
Tiền đề quan trọng đó trước
đây và hiện nay là chưa có
thật. Có lẽ đây chính là cái
gốc ban đầu dẫn đến cái LỖI
HỆ THỐNG như tôi vừa nói.
Cái lỗi này là do nhận thức
không đúng về thời cơ Cách
mạng.
Thời cơ chuyển từ Cách
mạng dân tộc dân chủ sang
Cách mạng xã hội chủ nghĩa
có một vấn đề bao trùm
chưa phù hợp, đó là vấn đề
dân chủ mà chúng ta chưa
hoàn thành cơ bản trong
Cách mạng dân tộc dân chủ .
Dân chủ trong kinh tế, dân
chủ trong chính trị, dân chủ
trong văn hóa,... Mà dân
chủ và phát triển là hai anh
em song sinh. Nền dân chủ
còn thấp thì nền kinh tế sẽ
kém phát triển. Và, như vậy
thì làm sao có xã hội xã hội
chủ nghĩa - một xã hội đòi
hỏi phải có nền dân chủ và
nền kinh tế phát triển cao
hơn các nước tư bản phát
triển nhất hiện nay.
Điều ông vừa nói nên hiểu
như thế nào? Và ông nghĩ
như thế nào về quốc hiệu
của Việt Nam trong giai
đoạn đó?
Trong Cách mạng dân tộc
dân chủ, Quốc hiệu của Việt
Nam là: "Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa" là rất đúng với
bản chất, với nội dung của
cuộc Cách mạng dân tộc
dân chủ, phù hợp với hình
thức chính thể cộng hòa
dân chủ mà nhân loại thừa
nhận và hướng tới, lại vừa
rất đúng với ngữ pháp Việt
Nam. Khi chuyển sang Cách
mạng xã hội chủ nghĩa,
Quốc hiệu của Việt Nam lại
đổi thành: "Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam", vừa
chưa phù hợp về bản chất
và hình thức chính thể của
nhà nước ta, vừa chưa thật
rõ về nội dung, thực chất là
chúng ta đã phải xác định
lại nhiều lần mà vẫn chưa
thật rõ, chỉ nói ngày càng rõ
hơn mà thôi; mặt khác ngữ
pháp lại không phải là ngữ
pháp Việt Nam. Nó là ngữ
pháp nước ngoài, không Tàu
thì là Tây.
Nếu theo ngữ pháp Việt
Nam thì phải viết là: "Việt
Nam Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa" mới đúng. Ngữ pháp
Việt Nam tính từ bao giờ
cũng đi sau danh từ (ví dụ:
Quả gấc đỏ, chứ không nói
quả đỏ gấc).
Quốc hiệu Việt Nam vừa
phải thể hiện chính xác hình
thức chính thể của nhà nước
ta, vừa phải đúng với ngữ
pháp Việt Nam. Những
người quan tâm đến sự lựa
chọn chính xác chính thể;
những người quan tâm đến
sự trong sáng của tiếng Việt,
những người có lòng tự
trọng dân tộc đều băn
khoăn đến Quốc hiệu hiện
nay. Ngay Trung Quốc, Lào...
họ cũng vẫn giữ Quốc hiệu
cũ của họ là "Cộng hoà dân
chủ nhân dân...", họ chưa
đổi thành Quốc hiệu có tính
từ XHCN.
Khi nói đến cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là vẫn
nói đến dân chủ, nhưng tính
dân chủ được hiểu nhẹ đi,
tính chuyên chính vô sản
được hiểu nổi trội hơn, có
phần cực đoan hơn, thể
hiện rõ nhất là thông qua
cải tạo XHCN. Do đó mà
nhiều người Việt Nam muốn
trở lại với Quốc hiệu Việt
Nam thời Cách mạng dân
tộc dân chủ, tức là "Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa",
vừa đúng với bản chất và
nội dung của hình thức
chính thể của nước ta, vừa
phù hợp với thông lệ quốc
tế, lại vừa đúng với ngữ
pháp Việt Nam, là sửa cái
lỗi hệ thống ban đầu của
chúng ta. Nếu được trưng
cầu dân ý, tôi tin chắc sẽ
được sự đồng tình của tuyệt
đại đa số nhân dân.
Bản chất của công cuộc đổi
mới trên lĩnh vực kinh tế
đó chính là dân chủ hóa
trên lĩnh vực này có phải
không?
Đúng vậy. Từ chỗ chủ yếu có
hai thành phần kinh tế đến
chỗ có nhiều thành phần
kinh tế. Từ chỗ đảng viên,
công chức nhà nước không
được làm kinh tế đến chỗ
đảng viên, công chức nhà
nước được làm kinh tế theo
pháp luật. Từ chỗ đất đai là
thuộc sở hữu nhà nước đến
chỗ người sử dụng đất đai
đã được 5 quyền như người
chủ sở hữu, tuy còn có điểm
rất mù mờ....
Sở hữu tư nhân thực chất
vẫn là vấn đề dân chủ tự do
trên lĩnh vực kinh tế, trong
mưu cầu hạnh phúc của mỗi
người, nó là cội nguồn cảm
hứng, là động lực to lớn cho
sự phát triển. Kết quả của
nó kỳ diệu như thế nào mọi
người đã biết.
Vẫn biết rằng nó cũng đẻ ra
những bất công mới, những
mâu thuẫn mới đòi hỏi
chúng ta phải nghiên cứu và
điều chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn khách quan trong
từng giai đoạn. Song đây là
con đường dân chủ, con
đường phát triển, con
đường sống ngày càng hạnh
phúc hơn.
Chúng ta cần sửa cái sai từ
gốc này một cách toàn diện
hơn, triệt để hơn như nhiều
ý kiến đề xuất của quần
chúng, của nhiều tổ chức và
nhiều nhà khoa học, trí
thức, nhân sĩ trong và ngoài
nước.
Sở hữu tư nhân là động lực
vô cùng to lớn, song không
phải không cần đến sở hữu
nhà nước. Nhưng sở hữu
nhà nước không phải là mục
đích, mà chỉ là phương tiện
trong giai đoạn nào, thời
điểm nào, trong lĩnh vực cụ
thể nào, vì lợi ích đích thực
của nhân dân và của nhà
nước chứ không phải vì mục
đích tự thân.
Vấn đề đất đai và một loạt
tập đoàn kinh tế của nhà
nước đang còn nhiều vấn đề
bức xúc, kém hiệu quả, cần
phải được nghiên cứu giải
quyết. Nhiều vụ án bê bối
về đất đai cũng như
Vinashin chỉ là những bộc lộ
điển hình. Nhiều tập đoàn
tư nhân ở trong và ngoài
nước cũng có hiện tượng
phá sản, bê bối như thế,
nhất là trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế. Kinh tế
thị trường là như vậy.
Nhưng đối với đất đai và các
tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam lại có đặc điểm
riêng của nó.
Vinashin đang là vấn đề
nổi cộm, tranh cãi, nhiều ý
kiến khác nhau. Phải
chăng sự khác nhau mà
người ta không muốn nói
đến chính là có phần do lỗi
hệ thống?
Tôi cũng nghĩ có phần sâu
xa là như vậy. Tôi cho rằng
Vinashin vừa là hậu quả của
khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, vừa có căn nguyên sâu
xa bắt nguồn từ lỗi của hệ
thống, lỗi từ gốc, từ chủ
trương của Ban Chấp hành
Trung ương và của Bộ Chính
trị xuất phát từ quan điểm
rằng: xã hội xã hội chủ
nghĩa phải được xây dựng
dựa trên "... chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu". Mô hình này lại xuất
phát từ một lý thuyết cực
đoan cho rằng: tư hữu về tư
liệu sản xuất là nguồn gốc
của mọi sự bóc lột.
Từ một lý thuyết cực đoan đi
tới một mô hình kinh tế
không có động lực mà thực
tế cuộc sống đã bác bỏ.
Chính phủ là người thực thi
chủ trương đó của Đảng về
mặt nhà nước. Ban Chấp
hành Trung ương và Bộ
Chính trị có quyền lớn như
vậy thì có phải chịu trách
nhiệm gì không?
Với thể chế như hiện nay ở
Việt Nam thì mọi thành
công hay thất bại đều bắt
nguồn từ sự lãnh đạo của
Đảng. (Ông cười tủm tỉm,
nói nhỏ rằng: Không nên
nói "mắt mùa là tại thiên
tai, được mùa là tại thiên tài
Đảng ta " - pv).
Đành rằng phải có trách
nhiệm cá nhân trong quản
trị hành chính và quản trị
doanh nghiệp, phải xem xét
cẩn trọng, có lý, có tình,
không tranh công, đổ lỗi.
Song phải rất chú ý đi sâu
làm rõ cái lỗi của hệ thống,
do sai sót của hệ thống làm
trầm trọng thêm.
Có ý kiến cho rằng, nếu bỏ
điều kiện "chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu" thì xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng sẽ chẳng
khác gì các nước tư bản
phát triển văn minh cả?
Rất nhiều người không đồng
tình với quan điểm này. Nếu
nước ta khác về đời sống vật
chất và tinh thần cao hơn,
văn minh hơn, tức là chất
lượng cuộc sống cao hơn,
nhất là dân chủ tự do cao
hơn thì đồng ý. Còn nước ta
phải công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu để khác với
các nước tư bản phát triển
thì lại là vấn đề sai từ gốc.
Rất nhiều ý kiến đề nghị bỏ
đoạn này trong Dự thảo Văn
kiện Đại hội XI.
Vả lại, ngay ở các nước tư
bản chủ nghĩa cũng có phần
sở hữu nhà nước, quy mô
lớn nhỏ là tùy lúc, tùy nơi,
họ không coi đó là mục
đích, mà chỉ coi là phương
tiện; xuất phát điểm của họ
là vì lợi ích, cái gì nhà nước
làm tốt hơn (theo nghĩa
tổng thể) hoặc tư nhân
không làm thì nhà nước
làm, cái gì tư nhân làm tốt
hơn thì tư nhân làm. Họ
không xuất phát từ lý thuyết
coi tư hữu về tư liệu sản
xuất là nguồn gốc của mọi
sự bóc lột, họ xuất phát từ
lợi ích, từ hiệu quả tổng
hợp của nền kinh tế, có tính
cả đến vấn đề quốc phòng
và an ninh của quốc gia.
Ngay ở Việt Nam chúng ta,
kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể theo kiểu cũ đã có
vai trò và đóng góp to lớn
vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước.
Đó là điều cần phải được
khẳng định. Song sang thời
bình như hiện nay thì chúng
ta buộc phải đổi mới, đất
nước đã chuyển sang nền
kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành
phần kinh tế, không thể tiếp
tục cách làm cũ, vì nó không
có động lực. Đó cũng là điều
đã được cuộc sống khẳng
định.
Vấn đề chủ yếu của quản trị
hành chính nhà nước là có
chính sách kiểm soát, phân
phối và phân phối lại lợi
nhuận một cách hợp lý, chứ
không phải là công hữu hóa
tư liệu sản xuất chủ yếu. Do
đó chúng ta phải dứt khoát
từ bỏ lý thuyết và mô hình
sai trái từ gốc này, vì hậu
quả của nó gây ra như thế
nào mọi người đều đã biết.
Đó là con đường trở về thời
kỳ thiếu thốn và đói khổ.
Tóm lại, vấn đề sở hữu, vấn
đề cơ chế quản trị tài sản
công (đất đai và các tập
đoàn kinh tế nhà nước...)
cần được xem xét giải quyết
dứt khoát, cụ thể và triệt
để. Tức là phải dân chủ hóa
triệt để hơn nữa trong kinh
tế, các cấp ủy Đảng không
trực tiếp tham gia vào quá
trình quản trị doanh nghiệp,
luật pháp cần phải được sửa
đổi, bổ sung theo hướng
quản trị doanh nghiệp và
quản trị hành chính nhà
nước phải được thông suốt,
tách bạch, trách nhiệm rõ
ràng.
Bây giờ xin được nghe ý
kiến của ông về vấn đề
xây dựng Đảng. Vừa rồi
báo Nhân dân có loạt bài
kể lại câu chuyện của Liên
Xô cũ. Vì sao một đảng
hùng mạnh, đã lãnh đạo
nhân dân Nga chiến thắng
phát xít Đức trong cuộc
chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
và cống hiến to lớn cho
thắng lợi của thế giới
trong Chiến tranh Thế giới
thứ hai, một đảng giành
được thành tựu rực rỡ
trong xây dựng CNXH lại
đổ sụp nhanh đến vậy, sau
74 năm cầm quyền?
Bài học của Liên Xô (cũ) vẫn
còn nguyên giá trị. Từ đó
mới thấy yêu cầu xây dựng
Đảng, phát huy dân chủ
trong Đảng và trong xã hội,
đoàn kết trong Đảng và
trong xã hội là vấn đề cốt tử
của những vấn đề cốt yếu,
vấn đề sống còn của Đảng
và chế độ ta. Mọi thành
công hay thất bại của Cách
mạng Việt Nam đều từ đây
mà ra. Không kẻ thù nào có
thể phá được Đảng ta trừ
chính những người cộng sản
chúng ta.
Quan sát sự tan rã của một
số Đảng cộng sản ở Liên Xô
(cũ) và Đông Âu, thì thấy
rằng, những người cộng sản
phá Đảng không phải chỉ là
những người cộng sản phản
bội Đảng, những người cộng
sản bị kẻ thù mua chuộc, bị
diễn biến hòa bình,... Mà
phần nhiều lại chính là
những người cộng sản chân
chính, những người cộng
sản không muốn bảo vệ
Đảng của mình nữa, vì thực
tế Đảng của mình đã thoái
hóa biến chất mất rồi, nhất
là vì Đảng của mình đã
phạm sai lầm có tính hệ
thống mà không nhận ra
được và không khắc phục
được. Đảng đã trở thành lực
lượng cản trợ dân chủ, tự
do, cản trợ sự phát triển của
xã hội. Đảng đã trở thành
ông Vua tập thể, đã trở
thành Đảng trị mất rồi.
Chúng ta rút được bài học
gì từ sự sụp đổ của Đảng
Cộng sản Liên Xô?
Hãy thử quan sát và phân
tích sự giải tán của một
Đảng tại quê hương của
Cách mạng tháng Mười thì
rõ. Tại sao một người đứng
đầu Đảng và Nhà nước tuyên
bố giải tán Đảng là Đảng đó
bị giải tán ngay? Một người
có làm được việc đó không?
Hay người đó chỉ là người
thay mặt cho số đông những
người trong Bộ Chính trị,
Ban chấp hành Trung ương,
trong toàn Đảng, trong cả
hệ thống chính trị? Đội ngũ
trí thức đâu? Liên minh giai
cấp công nhân với nông dân
và nhân dân lao động đâu?
Hệ thống thông tấn, báo chí
đâu? Lực lượng vũ trang
hùng hậu đâu mà không bảo
vệ Đảng? Tại sao họ quay
mặt đi? Hay là họ cũng đồng
tình? Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, tại
sao quần chúng không bảo
vệ?
Nâng thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân. Vấn đề
là lòng dân: Thuận lòng dân
thì còn, trái lòng dân thì
mất. Ý dân là ý trời.
Nhiều cơ quan thông tin đại
chúng của chúng ta thường
đưa tin chủ yếu là do
nguyên nhân bị diễn biến
hòa bình, một số cán bộ chủ
chốt bị mua chuộc phản bội
lại Đảng, dẫn tới cách mạng
màu,... mà chưa đi sâu vào
nội bộ Đảng, vào lỗi hệ
thống của Đảng, vào sự
thoái hóa biến chất trong
Đảng, Nhà nước và Xã hội
do lỗi hệ thống gây ra. Đảng
đã trở thành lực lượng cản
trở sự phát triển của xã hội,
đã trở thành lực cản của sự
phát triển tự do dân chủ
của xã hội. Nói theo tinh
thần của Marx thì cái gì cản
trở sự phát triển là thối nát,
là phản động. Chính những
người cộng sản chân chính,
chính liên minh giai cấp
công nhân với nông dân và
nhân dân lao động, chính
độ ngũ trí thức cũng không
muốn bảo vệ một Đảng đã
thoái hóa biến chất như vậy.
Đó mới là nguyên nhân
chính, chứ không phải do kẻ
thù của chủ nghĩa xã hội
phá hoại là chính. Chính
những người cộng sản chân
chính cũng muốn giải tán
Đảng đã biến chất để xây
dựng Đảng mới, để sửa lỗi
hệ thống, để làm lại từ đầu.
Và như chúng ta đã biết,
nhân dân ở các nước Đông
Âu và Liên Xô (cũ) đã phúc
quyết Hiến pháp mới để xác
lập chính thể mới phù hợp
với thông lệ quốc tế nhằm
sửa cái lỗi hệ thống của họ.
Một bài học quá đắt giá
trong lịch sử nhân loại.
Chúng ta cần tỉnh giác để
suy ngẫm, để chỉnh đốn
Đảng ta như trong di chúc
thiêng liêng của Bác Hồ đã
ghi.
Ngược về quá khứ, Bác Hồ
đã xây dựng nền tảng của
hệ thống như thế nào?
Lúc chọn đường đi cho dân
tộc, trong khi nhiều nước
phương Tây chọn Quốc tế II
thì Bác Hồ lại chọn Quốc tế
III, vì Quốc tế II không ủng
hộ giải phóng dân tộc, giải
phóng thuộc địa, Quốc tế III
ủng hộ giải phóng dân tộc,
giải phóng thuộc địa.
Bác Hồ là người tiếp thu các
học thuyết, các chủ nghĩa
tiên tiến của phương Tây,
tiếp thu tinh hoa văn hóa
phương Đông, Tư tưởng -
Minh triết của Bác đã soi
đường và thúc đẩy phong
trào Cách mạng Việt Nam.
Trong Bác Hồ chúng ta thấy
có cả những phần tinh túy
và phù hợp với Cách mạng
Việt Nam của chủ nghĩa
Marx-Lenin, của cách mạng
tư sản phương Tây, có cả tư
tưởng từ bi của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, có cả tư
tưởng bác ái của Đức chúa
Zesu, có cả tư tưởng nhân
nghĩa của Đức Khổng Tử, có
cả Chủ nghĩa Tam dân của
cụ Tôn Dật Tiên,... Bác kế
thừa những tư tưởng tiến
bộ của các bậc cách mạng
tiền bối của Việt Nam.
Bác Hồ chọn Quốc tế III là vì
mục đích giải phóng dân tộc
trước nhất, các vấn đề khác
hạ hồi phân giải, vì dân tộc
chưa được giải phóng thì
vạn năm giai cấp cũng chưa
được giải phóng. Đấy là sự
lựa chọn sáng suốt mang
tính lịch sử. Bác ở trong
dòng thác đó song vẫn độc
lập trong chừng mực có thể
vì mục tiêu độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc trên
nền dân chủ cộng hòa.
Do đó, khi xây dựng Đảng,
tôi đề nghị trở về với Lý
luận - Hành động, với Tư
tưởng - Minh triết Hồ Chí
Minh làm nền tảng và kim
chỉ nam cho hành động của
chúng ta. Tôi đề nghị chúng
ta vẫn giữ học thuyết Marx-
Lenin, nhưng chúng ta
không chỉ biết và vận dụng
duy nhất học thuyết Marx-
Lenin, mà cần phải biết và
vận dụng những học thuyết
tinh hoa của nhân loại như
chúng ta bắt đầu làm từ khi
đổi mới. Từ đó Đảng ta mới
phát huy được dân chủ, tự
do trong Đảng, trong nhà
nước và trong xã hội ta. Vì
chỉ có dân chủ tự do mới có
thể có điều kiện thật sự cho
sự phát triển vững mạnh,
mới có sức mạnh vô địch để
vượt qua mọi khó khăn thử
thách, bảo vệ được thành
quả của Cách mạng và
không ngừng đưa Cách
mạng Việt Nam tiến lên
phía trước cùng với bạn bè
năm châu bốn biển.
Theo đánh giá của ông,
người dân đã thực sự được
làm chủ như mong nguyện
của Bác Hồ chưa?
Theo luật pháp thì dân ta là
người chủ đích thực của đất
nước. Song đến nay dân ta
mới được bầu và bãi miễn
đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp, bầu và bãi miễn Đại
biểu Quốc hội, bầu và bãi
miễn trưởng thôn. Chúng ta
đều biết, chất lượng bầu cử
còn thấp, còn việc bãi miễn
thì hầu như chưa làm được
bao nhiêu, nguyên nhân thì
có nhiều.
Dân ta chưa được phúc
quyết Hiến pháp và những
việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia thông qua trưng
cầu dân ý. Tuy Hiến pháp
1946 đã ghi song chưa thực
hiện được vì chiến tranh đã
xảy ra ngay sau đó. Đến các
Hiến pháp sửa đổi sau này
lại bỏ quyền đó của dân mà
Quốc hội tự giao cho Quốc
hội có quyền lập hiến và lập
pháp.
Dân ta cũng chưa có quyền
lựa chọn cương lĩnh phát
triển đất nước và người
đứng đầu đất nước thông
qua tranh cử trong tổng
tuyển cử. Các hình thức hoạt
động tự nguyện của các
cộng đồng, các tầng lớp
nhân dân nhằm phát huy
mọi nguồn lực và góp phần
phản biện xã hội theo
hướng xây dựng xã hội dân
sự còn nghèo nàn và hạn
chế. Nạn hành chính giấy tờ
quan liệu, nhũng nhiễu còn
khá nặng nề,...
Nghĩa là còn rất nhiều
quyền dân chủ đương nhiên
của một công dân của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
nay là nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, mà
nhân dân ta đến nay vẫn
chưa được hưởng một cách
trọn vẹn.
Đã có lần ông đã nói về sự
phân quyền, vậy phân
quyền trong thể chế Đảng
lãnh đạo toàn diện nên
được hiểu thế nào?
Hiến pháp và Pháp luật đã
ghi rất rõ: Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, pháp luật là tối
thượng. Song trong thực
tiễn thì không ít trường hợp
chỉ chị, nghị quyết của Đảng
mới là tối thượng. Thực
chất chúng ta có hai hệ
thống quyền lực song song,
đó là hệ thống của Đảng và
hệ thống Nhà nước đi kèm
theo là hai hệ thống tòa nhà
của hai cơ quan đảng và nhà
nước cồng kềnh chưa từng
có. Đây là mô hình của cộng
hòa Xô Viết. Thông lệ quốc
tế không có như vậy.
Quốc hội là nhánh lập pháp
có quyền lực cao nhất, song
cũng còn nhiều hình thức,
thực chất là Trung ương, Bộ
Chính trị quyết.
Chính phủ là nhánh hành
pháp song cũng rất yếu, chủ
yếu là chấp hành chỉ thị
nghị quyết của Đảng.
Chủ tịch nước từ chỗ tập
trung thực quyền như khi
Bác Hồ đảm nhận, ngày nay
đã dần trở thành hình thức,
nghi lễ. Quyền của nguyên
thủ quốc gia bị phân tán ra
làm ba nơi, ba người nắm
giữ, đó là Tổng Bí thư thống
lĩnh lực lượng vũ trang, Thủ
tướng đứng đầu Chính phủ,
Chủ tịch nước đại diện cho
Nhà nước về đối nội và đối
ngoại nhưng không thực
quyền.
Tòa án là nhánh tư pháp lại
càng yếu thế.
Cả ba nhánh quyền lực đều
đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Ban lãnh đạo Đảng
(Bộ Chính trị - Ban Chấp
hành Trung ương).
Quyền lực nhà nước được
phân công ra làm ba nhánh
song lại thống nhất ở nơi
Đảng. Vậy, Đảng trở thành
ông vua tập thể rồi. Không
phải dân chủ nữa mà là
đảng chủ rồi. Mô hình của
cộng hòa Xô Viết là như vậy.
Đây là cái sai từ gốc về hệ
thống tổ chức quyền lực gây
nên lỗi của hệ thống cần
phải được khắc phục theo
quy luật phổ quát là phân
chia ba nhánh quyền lực
nhà nước một cách rạch ròi,
minh bạch, thống nhất theo
Hiến pháp và Pháp luật, tức
là thống nhất ở nơi dân,
(tam quyền phân lập).
Nếu chúng ta hiểu ba nhánh
quyền lực nhà nước đều đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã được thể chế hoá trong
Hiến pháp và Pháp luật là
đúng, còn nếu hiểu thống
nhất trực tiếp ở ban lãnh
đạo hoặc cá nhân lãnh đạo
cụ thể nào đó thì lại là sai,
lại là có vua cộng sản mất
rồi, dân chỉ còn là người
chủ hình thức, nhà nước trở
thành công cụ của đảng chứ
không phải công cụ của dân
nữa rồi. Mọi chủ trương
chính sách của đảng phải
được cụ thể hoá bằng Hiếp
pháp và Pháp luật. Chấp
hành Hiến pháp và Pháp
luật là chấp hành sự lãnh
đạo của Đảng. Xã hội sẽ
được nhà nước quản trị
bằng pháp luật, chứ không
quản trị bằng chỉ thị, nghị
quyết trực tiếp của đảng.
Pháp luật là tối thượng.
Một trong những biểu hiện
dân chủ trong xã hội đó là
việc chọn lựa cụ thể qua lá
phiếu. Theo ông, lá phiếu
của chúng ta hiện nay đã
thể hiện được tính dân
chủ của nó đến mức nào
rồi?
Theo nguyên tắc tập trung
dân chủ của Đảng thì ở
Quốc hội, ở Hội đồng nhân
dân, đảng viên phải bỏ
phiếu theo nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, làm đúng như
ở các nước có đa đảng tham
chính. Như vậy có đúng với
bản chất của Đảng và Nhà
nước ta không? Đảng của
dân, Nhà nước cũng của dân
cơ mà?
Ở Việt Nam, Đảng ta không
phải tranh giành lá phiếu
với đảng nào cả mà chỉ là lá
phiếu của những đảng viên,
của những người đại biểu
nhân dân tán thành hay
không tán thành một điểm
nào hay cả chủ trương,
chính sách nào đó của Ban
lãnh đạo Đảng, có khi chỉ là
ý kiến của một người có
trọng trách trong Đảng,
(không được nhầm lẫn với
Đảng nói chung).
Ở nước có đa đảng tham
chính, khi tranh cử nguyên
thủ quốc gia, đảng nào
chuẩn bị đưa người ra tranh
cử phải có quy trình tranh
cử trong nội bộ đảng để
chọn người xuất sắc của
đảng mình ra tranh cử với
đảng khác. Người ra tranh
cử phải có cương lĩnh tranh
cử, cử tri sẽ căn cứ vào
cương lĩnh tranh cử và
người đứng đầu cương lĩnh
đó của các đảng để lựa
chọn cương lĩnh và người
đứng đầu đất nước, khi đó
cương lĩnh của đảng thắng
cử sẽ trở thành cương lĩnh
phát triển của đất nước,
người đứng đầu đảng thắng
cử sẽ trở thành nguyên thủ
quốc gia. Còn khi bỏ phiếu
về vấn đề quan trọng nào
đó thì thông thường các
Đảng họ quy định đảng viên
của Đảng đó phải bỏ phiếu
theo lập trường của Đảng
đó. Vì đây là các Đảng tranh
giành lá phiếu với nhau,
tranh giành lợi ích cho Đảng
mình.
Nếu ta làm như các Đảng ở
các nước có đa Đảng tham
chính thì chẳng hóa ra Đảng
ta tranh giành lá phiếu với
dân à? Mà điều đó là điều
không thể hiểu được, vì nó
trái với bản chất của Đảng,
rằng Đảng ta không có lợi
ích nào khác ngoài lợi ích
của nhân dân. Đảng lãnh
đạo chứ không quyết thay
nhân dân.
Trong thực tiễn đã có rất
nhiều trường hợp đảng viên
trong Quốc hội, kể cả ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Trung ương, cán bộ cao
trung cấp của Đảng đã bỏ
phiếu thuận theo lòng dân,
không theo chỉ thị nghị
quyết của Bộ chính trị, của
Ban chấp hành TƯ và đã
được Đảng và Nhà nước
chấp nhận, nhân dân đồng
tình và hoan nghênh. Đó là
điều Đảng ta cần và phải
làm khác với các đảng ở các
nước có nhiều đảng tham
chính để phát huy dân chủ
thật sự trong đảng, trong xã
hội.
Chỉ có một Đảng duy nhất
tham chính, theo ông
chúng ta nên làm thế nào
để có dân chủ thực chất?
Nếu chúng ta chỉ đưa ra
một cương lĩnh, một người
ra ứng cử như một đảng của
các nước có đa đảng tham
chính, thì sẽ không có tranh
cử, dân sẽ không có cơ hội
lựa chọn cương lĩnh và
nguyên thủ. Làm như lâu
nay thì chưa thật dân chủ
trong Đảng, cũng chưa thật
dân chủ trong dân, còn
mang nhiều tính hình thức,
thụ động, dân ít quan tâm.
Như tôi đã nói trong một
cuộc trò chuyện với Tuần
Việt Nam hồi năm ngoái,
dân chủ là phải có tranh cử,
phải công khai minh bạch,..
để có sự lựa chọn trong
Đảng và trong xã hội, sẽ thu
hút được sự quan tâm xây
dựng nhà nước của đông
đảo nhân dân. Dân chủ
không đồng nhất với đa
Đảng. Mất dân chủ không
đồng nhất với một Đảng.
Dân chủ là dân phải được
lựa chọn cả cương lĩnh, cả
nhân sự, dân phải được
phúc quyết Hiến pháp và
những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia. Khi nào có
sự lựa chọn dân chủ thật sự
như vậy là có dân chủ thực
sự trong xã hội.
Trong Đảng ta có thể có
nhiều đồng chí đưa ra
những cương lĩnh tranh cử
khác nhau, dăm ba cương
lĩnh chẳng hạn, sau đó
trong Đảng lựa chọn ra hai
ba cương lĩnh tranh cử để
đưa ra dân lựa chọn, như
sự tranh cử trong nội bộ
một Đảng của các nước có
đa đảng tham chính. Như
vậy, dân sẽ có cơ hội lựa
chọn cương lĩnh tranh cử và
người đứng đầu cương lĩnh
để trở thành cương lĩnh
phát triển của đất nước và
nguyên thủ quốc gia trong
một nhiệm kỳ xác định.
Dân chủ trong Đảng gắn với
dân chủ trong dân, trong xã
hội sẽ tạo ra sự đồng thuận
giữa Đảng và Nhà nước và
Nhân dân. Ý Đảng lòng dân
là một. Khối đại đoàn kết sẽ
được củng cố và tăng cường
trong thực tiễn. Dân chủ có
lãnh đạo đúng đắn, không ai
làm thay ai, đó chính là
nguồn sức mạnh vô địch cho
sự sáng tạo và phát triển, là
sự sống còn của Đảng và
chế độ.
Như tôi đã nói trong các
câu trả lời ở trên, vấn đề
dân chủ và trách nhiệm
trong quản trị hành chính
của nhà nước ta còn nhiều
vấn đề tồn tại lớn cần phải
được nghiên cứu giải quyết,
nhất là về vai trò lãnh đạo
của Đảng, để phát huy đầy
đủ sức mạnh của bộ máy
quản trị hành chính nhà
nước, phát huy đầy đủ sức
mạnh của nhân dân - người
chủ đích thực của đất nước.
Trong bài viết mới đây
nhất
, ông có cho rằng đã đến
lúc phải xây dựng luật về
Đảng?
Đúng. Trước đây, khi Đảng
chưa cầm quyền, khi Đảng
còn đấu tranh giành chính
quyền về tay nhân dân thì
Đảng hoạt động ngoài vòng
pháp luật, chống lại pháp
luật của chính quyền thực
dân phong kiến.
Ngày nay Đảng ta đã trở
thành Đảng cầm quyền rồi,
thì không được làm như
trước nữa, mà phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật và
hoạt động theo luật về
Đảng. Song tiếc rằng đến
nay Đảng ta vẫn chưa có
luật về Đảng. Do vậy không
tránh khỏi một số trường
hợp Đảng vẫn đứng trên Nhà
nước, đứng trên pháp luật.
Người ta gọi như vậy là
Đảng trị. Chúng ta đã khắc
phục được nhiều rồi, song
vẫn còn những thói quen về
cách làm việc cũ, như khi
Đảng chưa cầm quyền, khi
chính quyền Nhà nước còn
non trẻ.
Ngày nay nhà nước ta đã
trưởng thành, đã là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta là Đảng cầm
quyền đã được ghi trong
Hiến pháp, song chưa được
cụ thể hóa thành luật, Quốc
hội phải sớm ban hành luật
về Đảng, khi đó Đảng sẽ
không còn bao biện, làm
thay Nhà nước, Đảng cũng
sẽ không buông lỏng lãnh
đạo. Đảng sẽ hoạt động lãnh
đạo hợp Hiến và hợp pháp.
Xin được hỏi câu cuối,
theo ông tư tưởng chủ
đạo để hoàn thiện các văn
kiện trình Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI là gì?
Đó là Tư tưởng - Minh triết
Hồ Chí Minh, là Lý luận -
Hành động Hồ Chí Minh đã
được thể hiện trong Tuyên
ngôn độc lập 2/9/1945,
trong Hiến pháp năm 1946,
trong di chúc thiêng liêng
của Bác..., trong lời nói và
việc làm của Bác. Cụ thể là:
1- Quán triệt tư tưởng đại
đoàn kết toàn dân tộc;
2- Bảo đảm phát huy tự do
dân chủ, dân là người chủ
đích thực của đất nước, dân
phải được phúc quyết Hiến
pháp và những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia;
3- Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN vững mạnh,
pháp luật là tối thượng,
quyền lực nhà nước là của
dân, thống nhất ở nơi dân,
thể hiện trong Hiến pháp và
Pháp luật theo mô hình phổ
quát phân chia ba nhánh
quyền lực nhà nước một
cách rạch ròi, minh bạch
(tam quyền phân lập).
4- Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng lãnh đạo nhà nước
và xã hội Việt Nam nhưng
không được tự cho mình là
đương nhiên, mãi mãi, mà
Đảng phải giành quyền lãnh
đạo thông qua tranh cử
trong Đảng và ngoài Xã hội.
Đảng phải hoạt động hợp
pháp, theo Luật về Đảng do
Quốc hội ban hành.
*
**
Với Đại hội VI, Đảng ta đã
vượt lên chính mình, thông
minh và dũng cảm mở đột
phá khẩu để thoát ra khỏi
lỗi hệ thống.
Từ đó tới nay chúng ta đã đi
được quãng đường khá dài,
đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
với xu thế không thể đảo
ngược.
Hy vọng rằng, với Đại hội XI,
XII, đảng ta sẽ tiếp tục vượt
lên chính mình để thoát
khỏi lỗi hệ thống một cách
triệt để và hoàn toàn.
*
* *
Khi nói Đảng bao biện làm
thay Nhà nước thì có vẻ nhẹ
nhàng như không có vấn đề
gì nghiêm trọng cả, nó đã
hình thành thói quen, chai
lỳ, bình thường. Song khi
chúng ta dùng ngôn ngữ
của Nhà nước pháp quyền,
ngôn ngữ của pháp luật thì
lại là vấn đề có ý nghĩa về
bản chất của Nhà nước
pháp quyền rồi. Khi chúng
ta so việc làm đó với hiến
pháp và pháp luật, so với
cương lĩnh và điều lệ Đảng
thì hành động bao biện làm
thay lại là hành động vi
phạm Hiến pháp, vi phạm
pháp luật của Nhà nước, vi
phạm cả Cương lĩnh và Điều
lệ của Đảng. Thế thì lại là
vấn đề quá to rồi, quá
nghiêm trọng rồi.
Khi nói Đảng buông lỏng
lãnh đạo thì có vẻ như Đảng
đứng ngoài Nhà nước mà
thật ra Đảng ta là Đảng cầm
quyền, chỉ có người đứng
đầu cấp ủy các cấp, từ Tổng
bí thư đến Bí thư cấp ủy các
cấp hành chính thường
không tham gia ứng cử
chức danh đứng đầu cơ
quan hành pháp nhà nước
cùng cấp, nên đôi khi gây
ấn tượng như vậy, nhất là
khi có ý kiến khác nhau giữa
đồng chí Bí thư với đồng chí
Phó bí thư - Chủ tịch Ủy
ban cùng cấp.
Nơi nào đồng chí Bí thư cấp
ủy mạnh, nổi trội hơn thì
thường có hiện tượng đồng
chí Bí thư bao biện làm
thay Chủ tịch. Ngược lại,
nơi nào đồng chí Chủ tịch
Ủy ban mạnh, nổi trội hơn
thì dễ có cảm giác Đảng
buông lỏng lãnh đạo, đồng
chí Chủ tịch lại bí đánh giá
là coi thường vai trò lãnh
đạo của Đảng.
Thật ra không phải như vậy,
vì đồng chí Chủ tịch cũng
thường là đồng chí Phó bí
thư cấp ủy cùng cấp cơ mà.
Ý kiến khác nhau là ý kiến
giữa hai đồng chí Bí thư và
đồng chí Phó bí thư (chủ
tịch Ủy ban nhân dân) trong
cùng một cấp ủy, không
phải là ý kiến khác nhau
giữa Đảng và Nhà nước. Nếu
người đứng đầu cấp ủy ứng
cử chức danh đứng đầu Nhà
nước thì sẽ khắc phục hiện
tượng bao biện làm thay
hoặc buông lỏng lãnh đạo.
Một vấn đề nữa cũng rất
quan trọng trong vấn đề
dân chủ là Đảng tự xác định
vị trí vai trò của mình như
thế nào đối với nhà nước,
với xã hội, với mặt trận và
các đoàn thể khác. Đảng là
một thành viên của mặt
trận, một chủ thể trong hệ
thống chính trị, song Đảng
là lực lượng chính trị lãnh
đạo nhà nước và xã hội,
lãnh đạo mặt trận và các
đoàn thể. Nhưng vai trò
lãnh đạo đó của Đảng có
phải là đương nhiên không?
Có phải mãi mãi không?.
Khi nói về mặt trận, Bác Hồ
có nói rằng: "Đảng không
thể đòi hỏi mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của
mình mà phải tỏ ra là bộ
phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực
nhất. Chỉ trong đấu tranh
và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đứng đắn
và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành
được địa vị lãnh đạo. (Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 5.
NXB Sự Thật 1983, Tr 115).
Bác Hồ nói về địa vị lãnh
đạo của Đảng đối với mặt
trận cũng tức là nói với cả
các đoàn thể khác, nói với
cả nhà nước và xã hội.
Đây là điều rất khác so với
khi Đảng chưa cầm quyền.
Nếu Đảng ta nhận thức đúng
địa vị của mình như thế,
nhà nước và nhân dân ta
hiểu đúng vai trò của Đảng
như thế thì vấn đề dân chủ
trong Đảng, trong nhà nước
và trong xã hội sẽ có bước
tiến rất to lớn và rất cơ
bản. Nếu Đảng coi mình
đương nhiên là lực lượng
lãnh đạo nhà nước và xã
hội thì Đảng sẽ trở thành
ông Vua tập thể, ông Vua
cộng sản mất rồi. Như vậy
là Đảng chủ, Đảng toàn trị
chứ không phải dân chủ
nữa. Và như vậy thì Đảng sẽ
không chăm lo xây dựng
chính sách đúng đắn, hợp
lòng dân, sẽ không chăm lo
đúng mức tới việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, khi đó
những hiền tài trung thực
sẽ không được tin dùng,
người cơ hội, nịnh hót sẽ
lọt vào cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng và nhà
nước, và như vậy là Đảng lại
đi vào con đường suy thoái
như các triều đại Vua chúa
thời quân chủ mất. Và đấy
là con đường diệt vong của
Đảng. Chúng ta cần nhìn lại
cái gương của các đảng
cộng sản ở Đông Âu và Liên
Xô (cũ) để kịp sửa lại mình
khi còn có cơ hội.
Cho nên vị trí, vai trò của
Đảng phải trở lại đúng với
tư tưởng của Bác Hồ, đó
cũng là qui luật phổ quát
mà các nước văn minh trên
thế giới vận dụng để lựa
chọn người hiền tài và bắt
buộc người hiền tài phải
tuân theo pháp luật nhằm
mục đích bảo đảm lợi ích
của quốc gia, dân tộc và kịp
thời thay thế bằng phương
pháp hòa bình nếu người
đó vi phạm tiêu chuẩn và
pháp luật.

posted from Bloggeroid

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét